Sông Hồng – Hà Nội: Hiện thực hóa mục tiêu quy hoạch

Sau gần 15 năm mở rộng Hà Nội, đồ án quy hoạch phân khu sông Hồng là đồ án cuối cùng trong tổng thể 35 đồ án quy hoạch phân khu đã được phê duyệt để biết được những khó khăn vướng mắc của đồ án này. Tuy nhiên, Quy hoạch tổng thể chung Hà Nội lại đến thời hạn thực hiện tích hợp theo Luật Quy hoạch. Và sông Hồng lại bắt đầu quy trình “Yêu lại từ đầu”.

Đồ án Quy hoạch phân khu (QHPK) sông Hồng có 3 mục tiêu chính và cả 3 mục tiêu đó đều là những bài toán hóc búa, liên hệ chặt chẽ với nhau mà nếu không giải quyết được chuỗi mắt xích liên kết này không thể hiện thực hóa được mục tiêu quy hoạch.

Nguồn: Internet
Nguồn: Internet

Đó là: Chỉnh trị dòng sông; Xây dựng trục cảnh quan không gian cây xanh – mặt nước và Nâng cao chất lượng đời sống dân cư khu vực.

Bài viết với mong muốn đưa ra các khuyến nghị để các cấp thẩm quyền, đơn vị, cá nhân liên quan tham khảo để những nghiên cứu tiếp theo về sông Hồng sẽ khả thi, tiếp cận gần và có cơ sở để trở thành hiện thực.

1. Chỉnh trị dòng sông (Yếu tố tiên quyết)

Mặc dù sông Hồng được đưa vào tất cả các đồ án quy hoạch chung (QHC) trước đây của Hà Nội nhưng để nghiên cứu bài bản, cụ thể thì thực sự chỉ có thể tính từ Dự án “Quy hoạch cơ bản phát triển sông Hồng đoạn qua Hà Nội” hợp tác giữa hai thành phố Hà Nội và Seoul 9/2006, cách đây 17 năm (trước khi Hà Nội mở rộng ranh giới hành chính, sáp nhập tỉnh Hà Tây và một phẩn của tỉnh Hòa Bình 8/2008).

Khác với nhiều dòng sông khác trên thế giới, tuy vị trí cũng nằm giữa lòng đô thị nhưng sông Hồng lại không phải lúc nào cũng hiền hòa và dễ chế ngự. Khu vực hai bên sông Hồng đoạn qua Hà Nội luôn bị hư hại, yếu ớt khi có lũ. Người dân cư trú trong khu vực sông và lòng sông biến đổi mạnh. Vì vậy, trong nghiên cứu ý tưởng về quy hoạch cơ bản sông Hồng thì tiêu chí Chỉnh trị sông Hồng được đưa lên hàng đầu, mang tính quyết định trước 3 tiêu chí khác là Phát huy lợi thế cảnh quan, Sắp xếp ổn định dân cư khu vực và Khai thác hiệu quả quỹ đất hai bên sông Hồng xây dựng phát triển đô thị bền vững.

Từ khi sông Hồng hình thành đến nay vẫn còn những dấu tích sự biến thiên dòng chảy trên địa bàn Hà Nội như hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, các bãi bồi, bãi giữa, bên lở, bên bồi. Liên quan đến sự thay đổi mực nước, dòng chảy và hành lang thoát lũ là hệ thống đê, đặc biệt là thủy điện đầu nguồn: trước khi chảy vào Việt Nam cũng như các thủy điện, hồ đập chứa nước phía thượng lưu sông Hồng trước khi chảy vào Hà Nội. Khi lập Dự án tiền khả thi, dự án khả thi cho việc đầu tư xây dựng các dự án thủy điện này trình cấp thẩm quyền phê duyệt đều có các kịch bản ngập lụt cho các vùng ảnh hưởng, trong đó có Hà Nội.

Liên quan đến sông Hồng, phải sau nửa thế kỷ chúng ta mới hoàn thành việc xây dựng các công trình thủy điện quy mô lớn: Thác Bà (1964-1971), sông Đà (1979-1994), Sơn La (2005-2012)… nhưng từ khi có chính sách phát triển thủy điện vừa và nhỏ thì chỉ trong vòng chưa đầy chục năm trở lại đây, với trên 115 thủy điện lớn nhỏ (sông Đà 47, sông Lô 17, sông Gâm 16, sông Chảy 14, các ngòi Phát, Bo, Nhù 17 và các phụ lưu khác 8) đã ngăn sông Hồng thành các khúc và lưu vực, phá hỏng giao thông thủy trên sông Hồng. Vì vậy, nghiên cứu về QHPK là cơ hội làm rõ kịch bản tổng thể ngập lụt của hệ thống thủy điện sông Hồng và các lưu vực để xác định hành lang thoát lũ, trong đó có đoạn qua Hà Nội (13 quận huyện, 11 ngàn ha và trên 40km chiều dài hai bên sông).

Kinh nghiệm chỉnh trị dòng sông, tăng cường lưu thoát nhanh, giảm thiểu tác động của dòng chảy, hạn chế việc xói lở như sông Đanuyp chảy qua 05 nước Đông Âu có những đoạn đã được uốn thẳng… cũng nên được tham khảo để có cơ sở khoa học quy hoạch thủy lợi, đê điều, đồng thời dành được khoảng không gian giữa lòng sông thẳng và các khúc uốn lượn như hiện nay của sông Hồng trở thành các không gian chức năng mới phục vụ cộng đồng, nâng cao chất lượng sống dân cư, nhất là khu vực trong đê thuộc đô thị lịch sử hiện hữu (các quận Tây Hồ, Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng) bờ Nam sông Hồng cũng như khu sạt lở bên quận Long Biên, các huyện Đông Anh, Gia Lâm… bên bờ Bắc đối diện.

Cốt cao độ hai bên sông phần trong đê thuộc hành lang thoát lũ (từ cốt mặt đê +11.000 m dốc thấp dần xuống phía bờ sông 4-5m) là những dữ liệu cho việc nghiên cứu sâu hơn các tuyến đường ngang xương cá, vuông góc với sông Hồng thấp hơn các đường dọc theo đê để vừa làm chức năng giao thông vừa là hệ thống thoát nước khi có mưa, lũ. Giải pháp này khả thi hơn hiện nay quy định: cột trống tầng 1 để thoát nước mà không công trình nào trong khu vực này thực hiện được kể cả các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách.

Khi xác định được kịch bản ngập lụt, hành lang thoát lũ tối đa, nắn dòng chảy sông giảm thiểu tác động bờ lở, thoát lũ nhanh… thì đồ án quy hoạch tổng thể mới có thể hoạch định được tuyến đê mới, vật liệu bê tông an toàn, thay thế đê bằng đất đắp cũ, mở ra không gian khoảng đất mới cho các chức năng giao thông liên kết dọc đê, quy hoạch khu đất mới thành công viên hoặc đơn vị ở tạm cư – tái định cư tại chỗ cho cư dân hiện hữu theo hướng hiện đại, đồng bộ chức năng, nâng cao chất lượng như mục tiêu của đồ án quy hoạch.

Thực tế, trên đường Âu Cơ (đoạn Yên Phụ – Lạc Long Quân) đê đã được thay thế từ đất đắp sang vách bê tông, hạ cốt mặt đê cũ để cải tạo thành tuyến giao thông dọc ven đê. Tuy nhiên, đây mới chỉ là giải pháp đáp ứng nhu cầu về giao thông.

Sự liên kết đồng bộ, khớp nối với các tỉnh thành trong Vùng Thủ đô không chỉ nhằm phối hợp chỉnh trị sông Hồng mà còn là tạo dựng cảnh quan lớn chung như về phía Tây Bắc: khu Ba Vì đối diện sông Đà, từ ngã ba sông cầu Trung Hà đến cầu Văn Lang đối diện với Lâm Thao, Việt Trì của tỉnh Phú Thọ, từ cầu Văn Lang (Ba Vì qua thị trấn Sơn Tây, Vân Hà – Phúc Thọ đối diện với Vĩnh Tường, Yên Lạc của tỉnh Vĩnh Phúc về phía Bắc (có cầu Vĩnh Thịnh nối sang).

Về phía Đông Nam: từ phía Nam các huyện: Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên (Hà Nội) đối diện các huyện Văn Giang, Khoái Châu, Yên Động (Hưng Yên) hiện chưa có cầu nào mà phía Bắc có cầu Thanh Trì, phía Nam gần nhất có cầu Yên Lệnh (trong quy hoạch có 3 cầu nối sang Hưng Yên từ các tuyến Vành đai số 3,5 , số 4 và số 5). Trong đó Phú Xuyên là đô thị vệ tinh với chức năng: Đô thị công nghiệp, đầu mối giao thông, trung chuyển hàng hóa. Do đó phải kiểm soát các chức năng để có thể hỗ trợ, tương thích, tránh cạnh tranh không lành mạnh, giảm thiểu đầu tư chung sản phẩm, ngành nghề, công nghiệp cũng như đối tượng, loại hình dự án, tiết kiệm nguồn tài nguyên đất đai của đất nước.
Liên kết các tỉnh trong du lịch toàn tuyến, đồng thời kiểm soát phát triển các chức năng nhà ở, cảnh quan, quy chế quản lý khai thác và đặc biệt là du lịch, làm phong phú thêm di sản văn hóa Vùng Thủ đô

2. Tạo dựng trục cảnh quan không gian cây xanh–mặt nước (Yếu tố quan trọng, đặc trưng)

Nguyên tắc QHPK sông Hồng là phải phù hợp QHC xây dựng Thủ đô Hà Nội. Đồ án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 đến năm 2030 tầm nhìn đến 2050 xác định “Khu vực hai bên sông Hồng là trục không gian cảnh quan trung tâm của Thủ đô, là nơi bố trí các công viên, công trình văn hóa, giải trí lớn để tổ chức những sự kiện có ý nghĩa của Thủ đô. Khai thác, kế thừa Quy hoạch Cơ bản phát triển sông Hồng đoạn qua Hà Nội, tiếp tục nghiên cứu phát triển đồng bộ hai bên đoạn tuyến chảy qua Thành phố, ảnh hưởng tới trục không gian cảnh quan văn hóa – đô thị Hồ Tây – Cổ Loa. Trên dọc tuyến sông Hồng, phần đất đoạn tuyến đi qua Tứ Liên không xây dựng công trình cao tầng làm ảnh hưởng tới trục không gian cảnh quan kết nối Hồ Tây – Cổ Loa”.
Phần thuyết minh trên thể hiện rất rõ cảnh quan nghiên cứu theo cả phương diện Dọc hai bên sông và Liên kết ngang sông Hồng với đô thị hiện hữu của Hà Nội.

Về cụ thể, cảnh quan lại bao gồm 02 yếu tố tạo thành:

  • Cảnh quan tự nhiên (mặt nước, dòng chảy của sông, cốt cao độ, tầm nhìn từ các phía từ sông và đến sông…);
  • Cảnh quan nhân tạo (công trình kiến trúc, công trình giao thông: cầu, đường; đê, cây xanh…).

Hướng nào cho liên kết giữa sông Hồng và đô thị Hà Nội theo cả chiều dọc và chiều ngang? Các định hướng: Đô thị ven sông, Đô thị bên sông, Đô thị quay mặt hay ngoảnh mặt với sông? Tất cả cần được làm rõ trên cơ sở dữ liệu hiện có và tính khả thi trong tương lai.

Cảnh quan tự nhiên: Sông Hồng là một phần không thể thiếu trong các yếu tố hình thành và phát triển Thăng Long – Hà Nội.

Theo các tài liệu lịch sử: Về địa lý và long mạch, thế đất “long chầu hổ phục” tại vùng đất Thăng Long – Hà Nội được tạo nên bởi hai mạch núi chính xuất phát từ đỉnh núi Ba Vì (phía Tây) và đỉnh núi Tam Đảo (phía Đông) cùng với dòng sông Hồng chảy dọc theo trục Tây Bắc – Đông Nam, song song với mạch Tam Đảo tạo nên hình thế như một con rồng hùng vĩ, thả mình xuôi xuống phía đồng bằng châu thổ sông Hồng. Theo đó, khu vực bờ Nam (bên bồi) của ngã ba sông Hồng – sông Đuống nằm trong dải đất Phú Thượng – Nhật Tân quanh Hồ Tây chính là “Đầu Rồng” – nơi sinh khí ngưng tụ và có các yếu tố cát tường được xem là đẹp nhất Hà Nội về phương diện phong thủy.

Về tên gọi: “Hà Nội” được dùng làm địa danh ở Việt Nam từ năm Minh Mạng thứ 12 (năm 1831) của tỉnh Hà Nội được “bao quanh bởi các con sông”: sông Nhị (sông Hồng) phía Đông Bắc và sông Thanh Quyết (sông Đáy) phía Tây Nam. Với quan niệm: Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ thì việc buốn bán theo đường thủy tại khu vực ven sông Hồng (khi chưa xây dựng đê ngăn), sông Tô Lịch thuận tiện và phát triển mạnh. Các làng xóm, di tích lịch sử văn hóa, tín ngưỡng dọc hai bên sông cũng đã chứng minh sự phát triển của các điểm dân cư hai bên sông Hồng.

Tuy nhiên, từ khi có đê đến nay thì về cốt hiện trạng khu vực trong đê (gồm lòng sông, hành lang thoát lũ và đê) và khu ngoài đê (khu đô thị lịch sử của Hà Nội) dễ dàng nhận thấy là khu vực sát bờ sông thấp (đáy sông cốt +5,500m) cao dần lên phía đê (cốt +12.000) rồi lại xuống thấp ra khu dân cư đô thị lịch sử của Hà Nội nằm ngoài đê, chênh nhau đến tối thiểu 4-5m và khoảng cách rộng cả hàng trăm mét. Mặt cắt sông Hồng là điều khác biệt so với bất kể dòng sông nào trên thế giới khi độ chênh lệch lớn từ đáy sông đến chiều cao mặt đê rồi khi vào khu dân cư nội đô lại xuống thấp, thậm chí nhiều khu vực như Hoàng Mai, Thanh Trì cốt đất tự nhiên chỉ +2,000 đến + 3,000m còn thấp hơn cả đáy sông Hồng.

Việc xây dựng quá nhiều thủy điện như đã nêu tại phần 1 với thiết kế đập thủy điện không có cửa xả đáy không chỉ làm mất đi lượng phù sa cung cấp cho các cánh đồng lúa hai bên sông khu vực đồng bằng sông Hồng, mà còn làm thấp dần đáy sông và mất đi yếu tố chính của cảnh quan – Đó là lượng nước mặt, ảnh hưởng cả tưới tiêu cũng như giao thông thủy.

Việc nghiên cứu tổng thể chỉnh trị sông (dòng chảy, phạm vi hành lang thoát lũ, phần giưã đê mới – đê cũ) như phần 1 đã nêu cũng sẽ mở ra hướng tạo ra các không gian hoán đổi, điều tiết hoặc bổ sung khoảng trống giữa dòng sông nắn thẳng và khu dân cư hiện nay tạo ra các công viên hai bên sông, vừa xây dựng hình ảnh cảnh quan cây xanh mới thu hút khách du lịch, vừa nâng cao chất lượng môi trường sống dân cư khu vực. Những hình ảnh này rõ nét và dễ nhìn hơn viễn cảnh về trục không gian cảnh quan văn hóa – đô thị Hồ Tây – Cổ Loa mà kể cả đi trên cầu hay máy bay cũng không thể bao quát hay hình dung được như cách miêu tả trên bản vẽ tỷ lệ 1/5000 hiện nay của các nhà hoặc định, quy hoạch.

Việc đắp đất tôn cao cốt hai bên sông, tạo thành triền dốc tự nhiên, góp phần tăng diện tích thấm thủy là tốt nhưng cũng cần nghiên cứu chủng loại cây trồng phù hợp cảnh quan, điều kiện khi ngập nước; hình thức triền dốc tự nhiên không khô cứng, phù hợp với chức năng chủ yếu của khu vực.

Cảnh quan nhân tạo:

Về phía bờ Nam sông Hồng: Thực tế khi quan sát thành phố từ sông Hồng thì các khu vực dân cư trong đê của các quận đô thị lịch sử có mật độ xây dựng cao, đa phần tự phát, lộn xộn mất mỹ quan, kể cả các khu tập thể của các đơn vị Nhà nước, khu phân lô phục vụ giải phóng mặt bằng (Đầm Trấu – Hai Bà Trưng).

Như vậy, nếu đề xuất xây dựng công trình theo hướng quay mặt ra sông ở ngay trên các tuyến phố dọc phía ngoài đê: Trần Khánh Dư, Trần Quang Khải, Yên Phụ, Âu Cơ… thì tầm nhìn khi giao thông thủy trên sông Hồng cũng chỉ nhìn thấy các công trình có quy mô khoảng từ 9 tầng trở lên (công trình cao tầng). Điều này không phù hợp với quy định tại Quy chế quản lý khu phố cổ Hà Nội – quận Hoàn Kiếm liền kề (lớp ngoài 3 tầng 12m, lớp trong 4 tầng 16m). Nếu tiếp tục xây dựng các công trình cao tầng trên các tuyến phố này ở các quận còn lại: Tây Hồ, Ba Đình, Hai Bà Trưng (đều nằm trong đô thị lịch sử) lại chất tải thêm hạ tầng kỹ thuật (giao thông) vốn đã yếu và thiếu hoặc hạ tầng xã hội (nếu chức năng nhà ở) đi ngược việc “Hạn chế phát triển nhà cao tầng và kiểm soát sự gia tăng dân số cơ học, giảm từ 1,2 triệu người xuống khoảng 0,8 triệu người” được xác định trong đồ án QHC Hà Nội đã phê duyệt năm 2011.

Như vậy để thấy nếu xây dựng thành phố lấy sông Hồng là chủ thể, thành phố quay mặt vào sông như thuở khai sinh thì để quan sát được hình bóng đô thị khi di chuyển trên sông thì quy mô và chức năng công trình phải được kiểm soát chặt chẽ để không chất tải lên hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội vốn đã bị quá tải trong khu nội đô lịch sử. Nhưng cũng không có nghĩa là không được xây dựng công trình cao tầng, mà cần được xác định ở vị trí nào làm điểm nhấn, xây dựng thành biểu tượng, nơi nào thành tổ hợp, các yếu tố tạo nên nhịp điệu trong hình ảnh đô thị trong sự liên kết chung với đô thị Hà Nội.

Về bờ Bắc sông Hồng: Sự liên kết sông Hồng với không gian Hà Nội tương lai khu Phương Trạch là chưa rõ nét trong liên kết chung toàn đô thị. Tại khu đất phát triển liền kề cầu Nhật Tân (Tàm Xá, Vĩnh Ngọc) tổ chức không gian cần lưu ý hướng tới các dự án lớn cao tầng phía Bắc sông Hồng, có thể tham khảo thêm ý tưởng năm 1998 trong việc khai thác yếu tố Nước khi ngăn đập tại bãi Tàm Xá thành hồ chứa, tạo mặt nước soi bóng quanh năm, kể cả khi sông Hồng cạn nước.

Việc tổ chức không gian các công trình tại Yên Phụ – Nhật Tân (bờ Nam) cũng như Tàm Xá (bờ Bắc) nếu tập trung vào phát triển công trình cao tầng không đạt được mục tiêu tạo thành trục “ảo” kết nối không gian “xuyên tâm” từ đường Láng – Hòa Lạc qua hồ Tây đến Đông Hội, Xuân Canh sang Cổ Loa. Đây là một trục không gian quan trọng, có thể nhận biết khi có điểm nhìn từ các công trình cao tầng dọc sông hay quan sát từ trên máy bay.

Hai bên sông đã có những khu vực di tích văn hóa, lịch sử… nhưng cũng cần nghiên cứu tại các khu vực bãi nổi, bãi bồi, bãi giữa, đặc biệt là tại mũi Bắc Cầu – nơi phân luồng sông Hồng và sông Đuống để bổ sung các hình ảnh, biểu tượng thể hiện hào khí Thăng Long, sông Hồng như cách làm của các nước; tượng thần Tự do tại sông Sein (Paris).

Cảnh quan nhân tạo còn là hình ảnh của những cây cầu qua sông, cầu đi bộ… Kiến trúc nào cho cầu để vừa đáp ứng như cầu về giao thông vừa tạo hình ảnh kiến trúc của Thủ đô theo định hướng Hiện đại và Đậm đà bản sắc dân tộc, mà chắc chắn phải là các công trình tiêu biểu cấp độ Thủ đô, đánh dấu thời đại xây dựng, chứ không thể là nhại cổ, nhang nhác bắt chước hoặc hình ảnh cây cầu chỉ là hình thức, không gia vào kết cấu cầu thì lãng phí về kinh tế… như câu chuyện về cuộc thi cầu Trần Hưng Đạo thời gian qua.

Về giao thông: Việc tăng cường năng lực giao thông (mặt cắt lớn) dọc sông là cần thiết trong kết nối, nhưng cũng cần lưu ý, cân nhắc giưã các yếu tố: môi trường, độ ồn, bụi, cảnh quan. Nhìn chung, tổ chức giao thông trong nghiên cứu này mới chỉ khai thác chủ yếu hai tuyến giao thụng “xương sống” dọc sông, còn lại các đầu mối giao thông của các tuyến giao thông “xương cá” từ sông Hồng đấu nối các tuyến giao thông khu vực kế cận lại chưa được tính toán kỹ.

Kinh nghiệm Hàn Quốc trong đồ án cải tạo phục hưng sông Hàn đến nay cũng đang phải khắc phục hạn chế của quy họach trước như việc tổ chức giao thông cơ giới sát bờ sông làm cản trở sự tiếp xúc tự nhiên giữa con người và cảnh quan, dòng sông; Các dãy nhà cao tầng với mặt nhà dài bám chạy dọc mặt sông ngăn cản tầm nhìn và án ngữ cảnh quan sông; Triền đê không được chia thành nhiều cốt và được tổ chức cây xanh cảnh quan tự nhiên…

3. Nâng cao chất lượng đời sống dân cư khu vực (Yếu tố nhân văn, ưu việt của chế độ)

Bài toán cần lời giải đáp là chỉ rõ mỗi khu vực dân cư trong đê hiện có (đặc biệt là trong đô thị lịch sử) sẽ được giải quyết thế nào, có xây dựng mới để tái định cư hay vẫn giữ nguyên giao thông, công trình hiện có? Có bổ sung vành đai xanh phía ngoài, các công trình công cộng, dịch vụ tiện ích hỗ trợ khu ngoài đê (như quy chế quản lý khu phố Cổ đã nêu) hay không? Nếu di dời, tái định cư thì tại chỗ hay chuyển đến khu vực nào? Kế hoạch thực hiện lộ trình đó ra sao? Nguồn vốn thực hiện?. Hay lại tiếp tục ưu ái những chủ đầu tư tìm đất tăng quỹ bất động sản cho họ nhưng lại chất tải lên khu dân cư hiện hữu?

Hà Nội là đô thị đặc biệt nhưng cũng thật “đặc biệt” là sau 15 năm mở rộng địa giới hành chính và hơn chục năm phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô nhưng lại không có bản tổng thể Kế hoạch phát triển đô thị nên sự phát triển đô thị không kiểm soát, không đồng bộ giữa giao thông và chức năng… dẫn đến tình trạng lộn xộn… như hiện nay làm cho đô thị nén càng bị chất tải, các nhà đầu tư chỉ tập trung khai thác lợi thế các khu đất trong đô thị lịch sử, gần trung tâm để có được lợi nhuận riêng cho họ mà mất đi nguồn lực đầu tư các khu vực hoạch định theo quy hoạch chung. Nguồn lực đầu tư dồn vào trung tâm nội đô cũng làm cho toàn bộ các khu đô thị vệ tinh, đô thị sinh thái đã không thể được thực hiện theo quy hoạch.

Đây cũng là điều mà các nhà hoạch định QHPK hay nghiên cứu tổng thể hoặc một phần ven sông hay bãi giưã của sông Hồng cần có những định hướng, kế hoạch cụ thể để các cấp chính quyền địa bàn quản lý việc đầu tư xây dựng ngay từ bây giờ, đồng thời trình cấp thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, tài chính, kêu gọi đầu tư thực hiện thành công các dự án đúng mục tiêu quy hoạch xác định.

Nếu quy hoạch chỉ tập trung khai thác các quỹ đất hiện có 2 bên sông Hồng thành các dự án, đơn vị ở mới (kể cả quy định mật độ xây dựng thấp) mà không có quy hoạch chỉnh trị (phần 1) và luôn quan tâm đến yếu tố cảnh quan chủ đạo (phần 2) thì ý đồ xây dựng trục cảnh quan cải tạo môi trường – Dải lụa XANH trên thực tế sẽ chỉ là mảnh vải vá hợp thức, ghép các dự án đã có, kể cả xây dựng sai phép của mọi nhà đầu tư và người dân.

Việc khai thác các quỹ đất hai bên sông này nếu có cũng cần tính toán để đảm bảo sự kết nối ăn nhập với không gian hình thái tổng thể đô thị Hà Nội cũng như các khu vực phố phường, làng xóm liền kề. Mỗi khu đất cũng nên xem xét phân bổ các chức năng trọng yếu, quyết định theo tinh thần phục vụ cộng đồng chung, chức năng công cộng là chủ yếu, tạo cực hút phát triển đô thị. Có thể lợi nhuận của các nhà đầu tư sẽ giảm hoặc không có, nhưng để bù lại, Thành phố có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư “dũng cảm” đầu tư vào các khu chức năng này bằng cơ chế khuyến khích hoặc đựơc ưu tiên khi đầu tư dự án tại các khu vực khác ngoài sông Hồng.

Việc căn cứ các dữ liệu hành lang thoát lũ, tính toán kịch bản lũ lụt như phần 1 và phần 2 đã nêu để định hình tuyến đê mới sẽ tạo ra quỹ đất lớn giữa hai khu vực đê cũ – mới làm nguồn lực cho việc cải tạo, tái định cư khu dân cư trong đê cũng như bổ sung công viên cảnh quan hai bên sông, công trình dịch vụ hỗ trợ khu dân cư ngoài đê (phố cổ, phố cũ).

Khó khăn của dự án là sự quyết tâm của mọi cấp chính quyền Quận Huyện, Thành phố và thời gian phê duyệt. Quốc hội, Thủ tướng sẽ phải có ý kiến chấp thuận về hành lang thoát lũ, việc điều chỉnh tuyến đê mới. Rồi các vấn đề lớn khác như việc giải quyết số lượng lớn dân cư, vốn đầu tư xây dựng tuyến đê mới, công viên cây xanh phục vụ cộng đồng dân cư đều cần được làm rõ và có phương án cụ thể, khả thi. Những đề xuất như tập trung giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ chế kêu gọi và đầu tư xây dựng; lập một đơn vị đầu mối, đa quốc gia để tiến hành đầu tư xây dựng. Càng rõ và kỹ bao nhiêu ở đồ án QHPK thì Quy hoạch chi tiết, Dự án triển khai sau này mới không thể đi chệch hướng và kiểm soát phát triển mới đúng kế hoạch hoạch định.

Với mục đích xây dựng một hình ảnh đô thị Thủ đô Hà Nội, tạo ra trục không gian chính của thành phố an toàn với lũ, đem lại sức sống mới với hướng phát triển thành phố quay mặt ra sông Hồng và xây dựng Thành phố tương lai đại diện vị thế của Thủ đô, có sức cạnh tranh quốc tế; biến sông Hồng thành không gian nghỉ ngơi của người dân thành phố, thuận tiện cho mọi người dân Thủ đô tiếp cận với tự nhiên… mặc dù QHPK sông Hồng chỉ là định hướng cho các quy hoạch chi tiết và các dự án cụ thể triển khai sau này. Nhưng nếu định hướng không rõ hoặc mới chỉ dừng ở các con chữ dạng khẩu hiệu thì tính khả thi sẽ không có cơ hội chạm đến với cuộc sống thật của cư dân cũng như sự phát triển bền vững của đô thị Hà Nội với trọng trách là Thủ đô của đất nước Việt Nam.

Thực sự đây là một đề tài có độ phức tạp cao, đa mục tiêu, liên quan đến các Bộ, Ngành Trung ương và Hà Nội: về thoát lũ, an toàn đê điều, an ninh quốc phòng, dân cư, du lịch, môi trường và phát triển đô thị. Khó chứ không phải là không thể và hy vọng tầm nhìn hôm nay về cảnh quan sông Hồng ngày mai xứng với năm 2050 mà Quy hoạch chung Hà Nội hướng tới. Tất cả các bải toán khó nếu được tập trung với tinh thần “Hà Nội cùng cả nước, cả nước vì Hà Nội” sẽ tháo gỡ, giải quyết được mọi nút thắt, hướng tới Đô thị thông minh, phát triển bền vững.

Theo tạp chí Kiến trúc